Lực quán tính – Wikipedia tiếng Việt
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lực quán tính, hay còn gọi là lực ảo, là một lực xuất hiện và tác động lên mọi khối lượng trong một hệ quy chiếu phi quán tính, như là hệ quy chiếu quay.
Lực quán tính không xuất phát từ bất kỳ tương tác vật lý nào mà là từ gia tốc
tự xuất hiện trong hệ quy chiếu phi quán tính. Dựa vào định luật 2 Newton
, lực quán tính luôn tỉ lệ thuận với khối lượng
tác động vào.
Một lực quán tính xuất hiện khi một hệ quy chiếu có gia tốc so với một hệ quy chiếu khác. Một hệ quy chiếu có thể được gia tốc theo bất kỳ cách nào, nên lực quán tính cũng là tùy ý (nhưng phải phụ thuộc vào gia tốc của hệ quy chiếu). Tuy nhiên, bốn lực quán tính đã được định nghĩa theo những cách gia tốc thường xảy ra: một lực gây ra bởi bất kỳ gia tốc tương đối theo một đường thẳng (lực quán tính tịnh tiến), hai lực gây ra từ bất kỳ chuyển động quay nào (lực quán tính ly tâm và lực Coriolis) và lực cuối, còn gọi là lực Euler, gây ra bởi sự thay đổi tốc độ quay.
Gọi hệ quy chiếu là hệ quy chiếu phi quán tính chuyển động có gia tốc tịnh tiến
so với hệ quy chiếu quán tính
, mọi khối lượng
trong hệ quy chiếu
phải chịu tác động của lực quán tính tịnh tiến
:
- Bài chi tiết : Hệ quy chiếu quay
Trong một hệ quy chiếu quay có tốc độ góc là so với hệ quy chiếu quán tính, mọi khối lượng
phải chịu tác động của 3 lực quán tính còn lại:
với là vectơ vận tốc của vật trong hệ quy chiếu quay.
với là vectơ bán kính của vật trong hệ quy chiếu quay.
- và Lực Euler
với là sự thay đổi vectơ tốc độ góc
theo thời gian.
Với một hệ quy chiếu phi quán tính quay với vectơ tốc độ góc
và tịnh tiến với gia tốc
so với hệ quy chiếu quán tính
, mọi khối lượng
phải chịu tác động của 4 lực quán tính trên.
Gọi là tổng lực tác động lên vật trong hệ quy chiếu quán tính
và
là tổng lực tác động lên vật trong hệ quy chiếu phi quán tính
, chúng ta có phương trình: